Trong 120 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp hàng năm của Việt Nam, 90 triệu tấn có thể tận dụng làm thức ăn chăn nuôi.
Trước việc giá mặt hàng thức ăn chăn nuôi cho lợn, gia cầm thời gian gần đây liên tục tăng mạnh thiết lập đỉnh mới, ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN-PTNT) cho biết, đây hoàn toàn là điều kiện khách quan.
Bởi trên 90% nguyên liệu phục vụ cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp của Việt Nam đang phụ thuộc vào nhập khẩu, trong đó chủ yếu là ngô, khô dầu đậu tương, bột thịt cá, DCP,… Chỉ mới 6 tháng đầu năm 2020, Việt Nam đã nhập khẩu trên 10 triệu tấn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, thủy sản các loại.
Do đó, với sản phẩm thức ăn chăn nuôi được sản xuất từ ngũ cốc dành cho lợn và gia cầm, ông Chinh khẳng định, trước mắt Việt Nam vẫn phải chấp nhận theo giá chung của thị trường thế giới cũng như mức độ ảnh hưởng của dịch Covid-19 tới hoạt động logistics.
Cũng theo ông Tống Xuân Chinh, về lâu dài, việc chúng ta mong muốn tự chủ nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi cho lợn, gia cầm cũng là điều hết sức khó khăn, bởi Việt Nam thực sự không có thế mạnh so với các nước về sản xuất ngô hay đậu tương.
Bằng chứng, ngô của Việt Nam bao năm qua năng suất chỉ loanh quanh 5 – 6 tấn/ha trong khi ngô của Mỹ năng suất trên 10 tấn/ha, thu hoạch bằng máy, bảo quản trong silo lạnh 10 hạt như 1 nên ngô của Việt Nam gần như không cạnh tranh được về giá và chất lượng. Tương tự, với đậu tương, sản lượng đậu tương hàng năm của Việt Nam không đủ đáp ứng nhu cầu làm đậu phụ.
Với mặt hàng lúa gạo, các nghiên cứu gần đây cho thấy, hầu hết các giống lúa của Việt Nam không đáp ứng được các tiêu chí về dinh dưỡng để làm thức ăn chăn nuôi. Hiện chỉ có cám gạo và sắn (mỳ) có thể dùng sản xuất thức ăn chăn nuôi, song cũng rất hạn chế về công nghệ chế biến nên nguồn sắn lát vẫn chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc.
Do đó, trong chiến lược phát triển chăn nuôi và đề án phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi giai đoạn 2021- 2030, Cục Chăn nuôi xác định, cần phải tập trung đẩy mạnh các quy trình, công nghệ chế biến phụ phẩm trong ngành trồng trọt, thủy sản để sản xuất ra những sản phẩm thức ăn có thế mạnh nội địa.
Theo số liệu thống kê, hiện mỗi năm Việt Nam có trên 120 triệu tấn phụ phẩm trong nông nghiệp, trong đó 30 triệu tấn dùng làm đệm lót sinh học, 90 triệu tấn còn lại có thể làm thức ăn chăn nuôi (40/90 triệu tấn là rơm dùng làm thức ăn cho động vật nhai lại).
“Hiện nay, Hàn Quốc có công nghệ thu hoạch rơm ngay trong quá trình gặt lúa, sau đó phun chế phẩm sinh học vào rồi đóng gói, ủ chua làm thức ăn cho gia súc nhai lại bảo quản được tới 2 năm. Đây là một hướng phát triển quan trọng mà ngành chăn nuôi Việt Nam cần hướng tới trong giai đoạn tới”, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi Tống Xuân Chinh nhấn mạnh.
Thực tế, trong khi Việt Nam phải chi hàng tỷ USD nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp năm 2020, các doanh nghiệp trong nước đã bắt đầu xuất khẩu thành công sản phẩm thức ăn thô xanh ra thị trường thế giới.
Cụ thể, hiện Việt Nam có 39 doanh nghiệp xuất khẩu thức ăn thô xanh, bao gồm ngô sinh khối ủ chua, cỏ ủ chua, rơm ủ chua, thức ăn tia gamma, đệm lót sinh học,… với sản lượng 225.000 tấn, trị giá 22,3 triệu USD.
Nguồn: nongnghiep.vn