Tối ưu hóa lợi nhuận của trại có nghĩa là tối ưu hoá lợi nhuận trên từng cái “róng” (ý nói là một cái giường/ ô/ chỗ ở cho bò – chú thích của người dịch). Và tốt nhất là đàn bò sữa có tỷ lệ bò trưởng thành cao (Vì năng suất cao hơn bò trẻ lứa 1 – chú thích của người dịch).
Để tối ưu hóa lợi nhuận trại bò của ta, ta phải tối ưu hóa lợi nhuận cho mỗi cái “róng”. Điều đó có nghĩa là mỗi cái róng phải được dành cho con bò mang tới lãi suất cao nhất. Và các con bò đó thường là ở chu kỳ sữa thứ 3, 4 hoặc 5.
Đương nhiên, trong một đàn bò bao giờ cũng có một tỉ lệ bò ở lứa 1. Mike Lormore, giám đốc dịch vụ kỹ thuật chăn nuôi của tập đoàn Zoetis, cho hay tỷ lệ thải loại 35- 40% có nghĩa là bò cái hậu bị chiếm một tỉ lệ không cân đối số “róng” và tạo ra sự đưa đẩy mức lợi nhuận cho toàn đàn bò. Lormore nói vậy.
Ông nói: “Chúng tôi luôn nghĩ đến việc nâng mức sản xuất, nhưng bằng cách nâng tỉ lệ bò đàn có tuổi, chúng tôi sẽ sản xuất thêm sữa tính trên từng “róng”.
“Ở Mỹ, chúng ta khá thoải mái khi chuyển đổi, và thực nhanh chóng. ” Ông nói. Bạn không bao nên giữ lại một con bò mà đã đến thời gian đổi thay, nhưng mỗi lúc thế chúng ta cần phải nghĩ cách làm giảm sự rủi ro toàn cuộc cho cả đàn bò, và như thế chúng ta sẽ không phá nát chúng và buộc chúng phải rời bỏ đàn.
“Chúng ta có rất nhiều con bò sản ra 40.000 lb sữa (>18 000 kg). Nhưng chúng ta pha loãng sản xuất của chúng với những bò non”, ông nói. “Nếu chúng ta nuôi bò già lâu hơn, chúng ta sẽ không phải chịu ảnh hưởng của sự pha loãng đó với lớp bò trẻ 2 tuổi (tức bò lứa 1) để gây nên sự giảm sữa tổng thể “.
Ông nói, ví dụ, một đàn bò sữa có năng suất trung bình 80 lb / con / ngày với tỉ lệ loại thải là 41% sẽ tự động nâng lên mức 85 lb khi tỉ lệ loại thải xuống 27%. Tức tương đương với 1.800 lb. sữa cho mỗi “róng”.
Hơn 100 con bò, có nghĩa là có thể có thêm 180.000 lb sữa mỗi năm.
Và tiềm năng lợi nhuận không dừng ở đó. Giảm tỷ lệ loại thải sẽ giảm số lượng bò cái thay thế tức giảm thức ăn để nuôi chúng. Thức ăn cho số bò hậu bị thay thế thông thường đứng thứ 4 trong khoản chi phí thức ăn cho bò sữa. Vì vậy, nếu bạn giảm số lượng số bò cái tơ đi 1/3 , thì tức ta cũng giảm chi phí thức ăn của chúng với mức như thế. Và qua đó ngân sách thức ăn cho cả trang trại cũng có thể giảm từ 7 đến 8%.
Sáu yếu tố lợi nhuận
Trong một nghiên cứu trên 90 đàn bò ở Midwest với gần 95.000 con bò – đã được xuất bản vào năm ngoái, (Xem bài: “Six Degrees of Separation,” December, 2016”) thì Ban Dịch vụ tài chính của CT Zoetis và AgStar (Zoetis và AgStar Financial Services) đã xác định được sáu nhân tố chủ yếu quyết định mức lợi nhuận của một trang trại.
“Chúng tôi đã bàn một số vấn đề loại này, chẳng hạn như chi phí thay thế đàn bò, năm này sang năm khác”, Steve Bodart, nhà tư vấn kinh doanh chính của hãng AgStar nói. “Nghiên cứu này cho chúng ta khả năng củng cố thông điệp với các nhà chăn nuôi.”
Sáu yếu tố đó bao gồm:
1. Số lượng tế bào soma (Somatic Cell Count – SCC)
Một trong những động lực lớn nhất của lợi nhuận là chất lượng sữa và số lượng tế bào soma (tế bào thân –ý nói tế bào vú bị hủy do viêm vú – chú thích của người dịch). Sự khác biệt giữa các đàn bò không lớn về vấn đề này. Tốp 1/3 số đàn có lợi nhuận cao nhất có chỉ số SCC này là 196.000 tế bào/mL trong khi đó tốp phần 3 thấp nhất về lợi nhuận có chỉ số SCC là 239.000 tế bào/mL.
Nhưng đàn bò cao có sữa quy năng lượng (ECM) là 91 lb/con/ngày khác với đàn bò có lượng sữa thế này ở mức thấp là 72 lb. Trên cơ sở hàng năm, lợi nhuận thu được là 1,14 USD /tạ hoặc thu nhập ròng thêm 115.000 USD cho một đàn bò có cơ số trung bình trong nghiên cứu này.
{ECM = 0,327 x sữa (kg) + 12,95 x mỡ (kg) + 0,65 x protein (kg)}
Có lẽ vì sản lượng sữa trên một con bò gần gấp đôi so với 30 năm trước, và chúng ta biết rằng viêm vú cũng ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của sức khoẻ, sinh sản và thải loại. “Tỉ lệ tử vong cao hơn nhiều ở các đàn bò có SCC cao. Kết quả là, tỷ lệ loại thải cao hơn, có nghĩa là bạn có nhiều bò trẻ hơn và vì thể sữa ít hơn. Bạn nhận được nhiều sữa hơn khi chỉ số SCC thấp hơn vì sức khoẻ của vú tốt hơn và vì thế bò của bạn sống lâu hơn “, Lormore nói.
2. Sữa quy năng lượng
Dường như bò cho sữa nhiều hơn sẽ mang lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên, sản xuất cao hơn có liên quan đến sự khoẻ mạnh của con bò.
Chỉ số SCC, thiệt hại do chết, chi phí thức ăn và số ngày phối giống lại trở thấp hơn… tất cả là ẩn, nhưng là những động lực quan trọng tác động đến sức sản xuất sữa của đàn bò. Nói cách khác, bò khỏe mạnh sản xuất nhiều sữa hơn. Sự khác biệt về lợi nhuận giữa 1/3 tốp đầu và 1/3 tốp dưới trong đàn bò là $1,44 /tạ, tương đương với mức lợi nhuận khoảng 85,000 $ mỗi năm.
Điều này phần lớn là do hiệu quả sản xuất, thường được mô tả là “sữa dôi – marginal milk “. Con bò phải ăn một lượng thức ăn nhất định để duy trì cơ thể. Khi yêu cầu này được đáp ứng, thì nhu cầu duy trì này sẽ trở thành một phần nhỏ trong tổng số chi phí thức ăn cho con bò một khi nó sản xuất sữa dôi ra.
3. Loại thải do chết
Bò chết. Đó là một thực tế ở các trang trại chăn nuôi bò sữa. Nghiên cứu này cho thấy nguy cơ tử vong thay đổi theo từng trang trại. “Hao hụt do chết ủy thác cho sức khỏe của con vật và kỹ năng chăn nuôi,” Lormore nói.
Tốp 1/3 đầu đàn gia súc có tỷ lệ tử vong thấp nhất có lãi suất cao hơn 86 cent/tạ so tốp1/3 nhóm có số chết cao. Nghĩa là thu nhập thêm 70.000 $ một năm.
Tỷ lệ sống của bê hậu bị là một yếu tố quan trọng. Lormore nói: “Tất cả những gì bạn làm giai đoạn đầu trong cuộc đời của một con bò, từ tiêm vắcxin đến cung cấp sữa non cho nó .. là rất quan trọng. Và sau đó, việc quản lý nó trong giai đoạn chuyển tiếp sang làm bò mẹ t (vắt sữa) cũng lại rất là rất quan trọng cho sự sống của nó trong 60 ngày đầu sau đẻ. Cũng có mối tương quan cao giữa tỉ lệ hao hụt do chết và chi phí thay thế đàn bò.
4. Chi phí thay thế đàn bò (CPTTDB)
Chi phí thay thế đàn bò (CPTTDB) trong nghiên cứu này được tính như sau:
CPTTDB = (số bò được thải ra khỏi đàn) x (giá trị thay thế) – (giá trị tận thu bò thải loại) : (số lượng sữa được vắt trong khoảng thời gian này).
Khi chi phí này tăng, thì lợi nhuận giảm.
Các đàn có CPTTDB thấp nhất có lợi nhuận cao hơn 2.04 USD / tạ so với đàn với đàn có CPTTDB cao nhất, tức lợi nhuận thêm 60.000 USD / năm. Các đàn có CPTTDB thấp nhất cũng thấp hơn 10 lb. sữa / bò.
Một số người cho rằng khi giá bò thải loại cao, thì chi phí thay thế bò không đáng giá vì giá thịt bò cao bù đắp lại. “Thật là sai,” Lormore nói. “Mỗi lần bạn tiêu hủy một con bò già, bạn tốn rất nhiều tiền và thời gian để thay thế cho cùng một điểm sản xuất.”
Bodart nói: “Thông điệp là chúng ta muốn có nhiều loại bò hậu bị thích hợp hơn, và chúng ta cần phải giữ chúng trong đàn càng lâu càng tốt.
5. Tỉ lệ mang thai
Dữ liệu về tỷ lệ có chửa có giới hạn, nhưng kết quả ban đầu cho thấy tỷ lệ mang thai cao hơn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn với mức 50.000 đô la mỗi năm hoặc 50 đô la một con bò/năm.
Lormore nói: Các nhóm lợi nhuận cao hơn cũng chi tiêu nhiều hơn cho tinh. Nếu bò có nhiều khả năng mang thai ở mỗi lần thụ tinh, người nông dân sẽ sẵn sàng chi tiền cho tinh có giá trị cao hơn. Đến lượt, điều này sẽ mang lợi thế cho họ đến từ thế hệ tương lai của đàn bò.
6. Tỉ lệ sống còn của bê hậu bị
Tất cả đàn gia súc trong nghiên cứu này đều rất tốt công việc nuôi bò hậu bị. Các nhóm lợi nhuận cao, tuy nhiên, đã làm tốt hơn một chút với tỷ lệ sống sót của bò cái trung bình là 95%. Đàn có lợi nhuận thấp có tỷ lệ sống trung bình của bò cái là 93%.
Nguồn: Viện Chăn nuôi
Công ty TNHH Thiết bị Công nghệ Dịch vụ Á Châu
Địa chỉ kho: số 3, đường Tân Xuân 6, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, TP.HCM
Hotline: 0972502979
Gmail: thietbichannuoibo@gmail.com
Website: https://thietbichannuoibo.vn/
Fanpage: https://www.facebook.com/chuyennghiepchannuoibo